Đạo lý Thiền Viện XAMVN

Thiền Viện Online XamVN cung cấp cho ae một số đầu sách căn bản.
Ae nào có hứng thú muốn đọc hay tu hành thì tham khảo !
Các sách không hề có thứ tự trước sau lắm, tuỳ vào sở thích mà có thể chọn đọc 🙏

Giáo Lý :









Sách Thiền :











Thiền Viện XamVN không nhận cúng dường dưới bất kì hình thức nào
Lành thay 🙏 🙏 🙏



Ye dhammā hetuppabhavā Tesaṃ hetuṃ tathāgato āhaTesañca yo nirodho

Evaṃvadī mahāsamano.

“Các pháp nào có nhân thuộc lãnh vực sanh, Đấng Như Lai thuyết về nhân quả của các pháp đó, và thuyết về sự diệt của các pháp đó,

Bậc Đại Sa Môn có luận thuyết như vậy”.
 
Sửa lần cuối:
Tôi đã đóng thuế và góp gạch xây tượng đài 🙏 🙏 🙏

Mong ngài ghi nhận sự sám hối và cúng dường của tôi 🙏🙏🙏
Cúng dường là hành động vị tha, thiện lành, nó hỗ trợ hành giả sơ tâm học đạo biết hướng đến sự xả ly bản ngã và vật chất sở hữu. Ông đóng thuế, góp gạch xây tượng với tâm gì?🙏🙏🙏
 
Cúng dường là hành động vị tha, thiện lành, nó hỗ trợ hành giả sơ tâm học đạo biết hướng đến sự xả ly bản ngã và vật chất sở hữu. Ông đóng thuế, góp gạch xây tượng với tâm gì?🙏🙏🙏
Với tâm bị bắt buộc và đành phải hành xả thưa Ngài 🙏
 
Ông xả tài vật với tâm sân thọ ưu mà đòi phước báu nhơn thiên đã được chưa mà đòi với tay đến giác ngộ giải thoát? 🙏🙏🙏
Lành thay, tôi xin sám hối và ghi nhận các hành bất thiện để không tái phạm nữa 🙏🙏🙏🙏

Xin đảnh lễ 🙏 🙏 🙏
 
"...ĐƯỢC TÁI SANH TRỞ LẠI LÀM NGƯỜI LÀ SỐ ÍT..." NHƯ THẾ NÀO?

Lúc đó đức Thế Tôn khươi ra chút đất trong móng tay và nói với các Tỳ kheo như vầy:

“Này các Tỳ kheo, các thầy nghĩ sao, cái nào là nhiều hơn: chút đất ta mới khươi ra trong móng tay hay đại địa cầu này?”

“Thưa Thế Tôn, đại địa cầu là nhiều hơn. Chút đất Thế Tôn mới khươi ra trong móng tay chỉ là nhỏ nhặt. So với đại địa cầu, thì chút đất đó là không đáng tính, không đáng so sánh, thậm chí không được một phần nào.”

- “Cũng giống như vậy, này các Tỳ kheo, những chúng sinh là người khi chết đi được tái sinh trở lại làm người là số ít. Còn những chúng sinh là người khi chết đi bị tái sinh trong cõi địa-ngục, cõi súc-sinh, cõi ngạ-quỷ (quỷ đói) thì rất nhiều.

Vì lý do gì? Này các Tỳ kheo, bởi do họ chưa nhìn thấy Bốn Diệu Đế.

SN56.102-103-104
 
Nghe hành giả giảng pháp vẫn thấy hay hơn học giả, ko lan man trích dẫn đi thẳng vào vde. Dạo này sư có thêm hộ pháp chắc đã dc chư thiên phái xuống.
 
Nghe hành giả giảng pháp vẫn thấy hay hơn học giả, ko lan man trích dẫn đi thẳng vào vde. Dạo này sư có thêm hộ pháp chắc đã dc chư thiên phái xuống.

Chính một xàmmer như bro cũng là hộ pháp đấy.
Xin đảnh lễ bro.🙏🙏🙏
 
Nghe xong tự dưng thấy tâm rộng mở bớt chấp trước. Mình cứ để nghiệp dẫn đi thích cái đã từng thích, ghét cái đã từng ghét thì lần luân hồi này có khác j lần trc đâu. Mọi thứ cứ bình đẳng ko phân biệt lại hay, nghiệp hay ko cũng mặc.
 
LỜI PHẬT DẠY VỀ CHÁNH NGỮ (Samma-vaca, Right speech)
Tỳ-khưu Thanissaro trích soạn (2005) – Bình Anson dịch Việt (2020)
Nguồn:

Chánh Ngữ là chi thứ ba trong Bát chi Thánh đạo và được xếp vào nhóm Giới của con đường đưa đến giải thoát.

* ĐỊNH NGHĨA
Thế nào là chánh ngữ? Không nói dối, không nói đâm thọc, không nói lời gay gắt, không nói lời phù phiếm.
– SN 45.8

* NĂM YẾU TỐ CỦA CHÁNH NGỮ
Này các tỳ-khưu, có năm yếu tố tạo nên lời nói thiện lành, không xấu ác, không bị chê trách, không bị người trí chỉ trích. Thế nào là năm? Nói đúng thời. Nói đúng sự thật. Nói lời nhu hòa. Nói những gì có lợi ích. Nói với tâm từ.
– AN 5.198

* NGUY HẠI CỦA NÓI DỐI
“Này các tỳ-khưu, người nào vi phạm một pháp, Ta nói rằng đối với người ấy không có việc ác nào người ấy không làm được. Một pháp ấy là gì? Đó là việc cố tình nói dối.”
– Iti 25

* CHỈ NÊN NÓI NHỮNG LỜI KHÔNG GÂY TAI HẠI
Nên nói những lời gì,
Lời ấy không khổ mình,
Lời không làm hại người.
Đó là lời thiện thuyết.

Nên nói lời ái ngữ,
Lời nói khiến hoan hỷ.
Lời nói không ác độc,
Đó là lời ái ngữ.
–Thag 21.1239-1240

* THANH LỌC TÂM QUA NHỮNG LỜI KHÉO THUYẾT.
Có bốn cách mà một người dùng lời nói để thanh lọc tâm. Thế nào là bốn?

Người ấy đoạn tận nói dối, từ bỏ nói dối. Khi người ấy đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, nếu được gọi làm chứng và được hỏi: “Này ông, hãy nói những gì ông biết.” Nếu không biết, người ấy nói: “Tôi không biết.” Nếu biết, người ấy nói: “Tôi biết.” Nếu không thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy.” Nếu thấy, người ấy nói: “Tôi thấy.” Như vậy người ấy không cố ý nói dối vì mình, vì người khác, hoặc vì một vài quyền lợi gì khác.

Người ấy đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói đâm thọc. Khi nghe điều gì ở chỗ này, người ấy không nói ở chỗ kia để gây chia rẽ với những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, người ấy không nói ở chỗ này để gây chia rẽ với những người kia. Như vậy người ấy hòa giải những kẻ chia rẽ, khuyến khích tình đoàn kết, yêu thích sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.

Người ấy đoạn tận lời nói gay gắt, từ bỏ lời nói gay gắt. Người ấy nói lời nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý nhiều người.

Người ấy đoạn tận lời nói phù phiếm. Người ấy nói đúng thời, nói chân thật, nói có lợi ích, nói đúng Pháp, nói đúng Luật. Đúng thời, người ấy nói những lời đáng được ghi nhận, hợp lý, ngắn gọn, lợi ích.

Như vậy là bốn cách mà một người dùng lời nói để thanh lọc tâm.
— AN 10.176

* LIÊN HỆ VỚI CÁC CHI KHÁC CỦA THÁNH ĐẠO
Và như thế nào, chánh kiến đi hàng đầu? Biết rõ tà ngữ là tà ngữ, biết rõ chánh ngữ là chánh ngữ. Thế nào là tà ngữ? Nói dối, nói đâm thọc, nói gay gắt, nói lời phù phiếm. Như vậy là tà ngữ. (…)

Ai tinh tấn đoạn trừ tà ngữ, thành tựu chánh ngữ: Như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai có ý niệm đoạn trừ tà ngữ và an trú trong chánh ngữ: Như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy, ba pháp này – chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm – chạy theo, chạy vòng theo chánh ngữ.
–MN 117

* TIÊU CHUẨN CHỌN LỰA NHỮNG GÌ NÊN NÓI
[1] Lời nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thì Như Lai không nói lời ấy.

[2] Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thì Như Lai không nói lời ấy.

[3] Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thì Như Lai biết đúng thời để nói lời ấy.

[4] Lời nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, thì Như Lai không nói lời ấy.

[5] Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, thì Như Lai không nói lời ấy.

[6] Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, ở đây, thì Như Lai biết đúng thời để nói lời nói ấy. Vì sao vậy? Vì Như Lai có lòng thương cảm các loài hữu tình.
— MN 58

Hãy nói lên lời nói,
Không làm khổ cho mình,
Không làm hại người khác,
Lời nói ấy khéo nói.

Hãy nói lời khả ái,
Nói lời khiến hoan hỷ,
Không mang theo ác hại,
Khiến người khác ưa thích.
— Sn 3.3

* SUY NGẪM VỀ LỜI NÓI – TRƯỚC KHI, TRONG KHI VÀ SAU KHI NÓI.
[Đức Phật dạy Rāhula (La-hầu-la)]

Khi muốn làm một khẩu nghiệp gì, hãy suy ngẫm như sau: “Khẩu nghiệp ta muốn làm có thể đưa đến hại mình, có thể đưa đến hại người khác, hay có thể đưa đến hại cả hai? Có phải khẩu nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ?” Nếu khi suy ngẫm, biết rằng khẩu nghiệp này có thể đưa đến hại mình, có thể đưa đến hại người khác, hay có thể đưa đến hại cả hai, đó là khẩu nghiệp bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ; khẩu nghiệp như thế nhất định không nên làm. Nhưng nếu khi suy ngẫm, biết rằng khẩu nghiệp này không đưa đến hại mình, không đưa đến hại người khác, hay không đưa đến hại cả hai, đó là khẩu nghiệp thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc; khẩu nghiệp như thế nhất định nên làm.

Khi đang làm một khẩu nghiệp gì, hãy suy ngẫm như sau: “Khẩu nghiệp ta đang làm có thể đưa đến hại mình, có thể đưa đến hại người khác, hay có thể đưa đến hại cả hai? Có phải khẩu nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ?” Nếu khi suy ngẫm, biết rằng khẩu nghiệp này có thể đưa đến hại mình, có thể đưa đến hại người khác, hay có thể đưa đến hại cả hai, đó là khẩu nghiệp bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ; khẩu nghiệp như thế nhất định nên từ bỏ. Nhưng nếu khi suy ngẫm, biết rằng khẩu nghiệp này không đưa đến hại mình, không đưa đến hại người khác, hay không đưa đến hại cả hai, đó là khẩu nghiệp thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc; khẩu nghiệp như thế nhất định nên tiếp tục.

Khi làm xong một khẩu nghiệp gì, hãy suy ngẫm như sau: “Khẩu nghiệp ta vừa làm xong có thể đưa đến hại mình, có thể đưa đến hại người khác, hay có thể đưa đến hại cả hai? Có phải khẩu nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ?” Nếu khi suy ngẫm, biết rằng khẩu nghiệp này có thể đưa đến hại mình, có thể đưa đến hại người khác, hay có thể đưa đến hại cả hai, đó là khẩu nghiệp bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ; khẩu nghiệp như thế cần phải được thưa lên, cần phải được tỏ lộ, cần phải được trình bày trước vị đạo sư hay trước các vị phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ trong tương lai. Nhưng nếu khi suy ngẫm, biết rằng khẩu nghiệp này không đưa đến hại mình, không đưa đến hại người khác, hay không đưa đến hại cả hai, đó là khẩu nghiệp thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc; nên an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp.
— MN 61

* NHỮNG CUỘC ĐỐI THOẠI VỊ TỲ-KHƯU CÓ GIỚI HẠNH CẦN PHẢI TRÁNH
Có một số đạo sĩ, bà-la-môn tuy sống nhờ vật thực do tín đồ cúng dường nhưng vẫn thích nói những chuyện vô ích tầm thường như: chuyện về vua chúa, về ăn trộm, về các quan đại thần, về binh lính, về các hiểm nguy, về chiến tranh, về thức ăn, chuyện về thức uống, về y phục, về chỗ ở, về vòng hoa, về hương liệu, về họ hàng, về xe cộ, về làng xóm, về thị tứ, về thành phố, về xứ sở, về đàn bà, về đàn ông, về các vị anh hùng, chuyện bên lề đường, chuyện tại chỗ lấy nước, chuyện về những người đã chết lúc trước, các chuyện linh tinh, chuyện tiên đoán về thế giới và biển cả, chuyện về được và mất. Còn vị tỳ-khưu có giới hạnh thì từ bỏ nói những chuyện vô ích, tầm thường đó.

Có một số đạo sĩ, bà-la-môn tuy sống nhờ vật thực do tín đồ cúng dường, nhưng vẫn thích biện luận, tranh chấp và nói với nhau như: “Ông không biết pháp và luật này, tôi biết pháp và luật này. Làm sao mà ông có thể hiểu biết pháp và luật này? Ông đã hành sai pháp, tôi nói mới thật hành đúng pháp. Lời tôi nói là nhất quán, lời nói của ông không nhất quán. Điều đáng nói trước, ông lại nói sau. Điều đáng nói sau, ông lại nói trước. Những gì ông suy nghĩ bấy lâu nay là sai lầm. Quan điểm của ông đã bị bác bỏ. Ông đã bị đánh bại. Nên sửa đổi quan điểm của ông, hãy cố gắng thoát ra khỏi ngõ bí.” Còn vị tỳ-khưu có giới hạnh thì từ bỏ những cuộc biện luận, tranh chấp đó.
— DN 2

Này các tỳ-khưu, đừng nói những lời tranh luận như: “Ông không biết pháp và luật này, tôi biết pháp và luật này. Làm sao mà ông có thể hiểu biết pháp và luật này? Ông đã hành sai pháp, tôi nói mới thật hành đúng pháp. Lời tôi nói là nhất quán, lời nói của ông không nhất quán. Điều đáng nói trước, ông lại nói sau. Điều đáng nói sau, ông lại nói trước. Những gì ông suy nghĩ bấy lâu nay là sai lầm. Quan điểm của ông đã bị bác bỏ. Ông đã bị đánh bại. Nên sửa đổi quan điểm của ông, hãy cố gắng thoát ra khỏi ngõ bí.”

Vì sao? Vì những tranh luận ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Này các tỳ-khưu, nếu có đối thoại thì nên nói về Khổ, Khổ tập, Khổ diệt, và Con đường Diệt khổ. Vì sao? Vì các đối thoại đó có liên hệ đến mục đích, là căn bản cho phạm hạnh, đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
— SN 56.9

* MƯỜI ĐỀ TÀI ĐỂ ĐÀM LUẬN
Này các tỳ-khưu, có mười đề tài xứng đáng để đám luận. Mười đề tài ấy là gì? Đề tài về thiểu dục, về tri túc, về viễn ly, về không tụ hội, về tinh tấn, về giới đức, về thiền định, về trí tuệ, về giải thoát, về tri kiến giải thoát. Đó là mười đề tài xứng đáng để đàm luận. Nếu các ông tiếp tục đàm luận về mười đề tài này, các ông sẽ sáng chói hơn cả ánh sáng mạnh mẽ, chói chang của mặt trời và mặt trăng, du sĩ ngoại đạo khác không thể sánh bằng.
— AN 10.69
 
Câu hỏi: Nếu chúng ta cứ duy trì việc quan sát cái đau, sự nóng bức hay tê cứng mà không chịu thay đổi oai nghi liền, thì thực sự đó có phải là tự ép xác hay khổ hạnh (Atta-kilamatha-nuyoga) không?

Trả lời: Có người bảo tôi, một vị thiền sư cư sĩ kia nói rằng nếu bạn có cái đau, nóng bức hay sự tê cứng do ở trong một tư thế (oai nghi) nào đó quá lâu, bạn nên thay đổi oai nghi. Nếu không, đó sẽ là một loại pháp hành khổ hạnh.

Thực ra quan điểm đó không có căn cứ, và chú trọng quá nhiều đến “lợi ích tỉnh giác”, Satthakasampajañña, tức suy xét xem điều gì có lợi

Có bốn loại tỉnh giác:
1. Satthakasampajañña - Lợi ích tỉnh giác;
2. Sappāyasampajañña - Thuận lợi tỉnh giác;
3. Gocārasampajañña – Hành xứ tỉnh giác;
4. Asammohasampajañña – Bất mê tỉnh giác


Khi bạn thực hành thiền chỉ và thiền Minh sát, chủ yếu là phải có Khantī-saṃvara, nghĩa là tự chế, hay phòng hộ với sự trợ giúp của pháp kham nhẫn Saṃvara hay phòng hộ
Có năm cách:

1. Pāṭimokkha Saṃvara – phòng hộ bằng giới bổn Ba la đề mộc xoa;
2. Sati Saṃvara – phòng hộ bằng niệm;
3. Ñāṇa Saṃvara – phòng hộ bằng trí tuệ;
4. Khanti Saṃvara – phòng hộ bằng kham nhẫn;
5. Viriya Saṃvara – phòng hộ bằng tinh tấn. Xem thêm trong Đoạn Trừ Lậu Hoặc


Chỉ khi bạn duy trì việc thực hành với pháp kham nhẫn, tức kham nhẫn chịu đựng cái đau, v.v… ngoại trừ trường hợp không thể chịu đựng nổi, thì định và tuệ mới phát sanh.

Ngược lại, nếu bạn thường xuyên thay đổi oai nghi, sẽ không còn lại chỗ nào cho định và tuệ Minh sát nữa. Mọi người, nếu đã từng hành một cách nghiêm túc, đều biết rõ điều đó. Vì thế, bạn nên thực hành với pháp kham nhẫn cho đến mức có thể, đừng thay đổi oai nghi thường xuyên quá. Đó đích thực là phòng hộ bằng kham nhẫn - Khantī-saṃvara, chứ hoàn toàn không phải là khổ hạnh, hay ép xác gì cả, bởi vì một sự nhẫn nại như vậy không cố ý tự làm khổ mình, mà chỉ giúp cho người hành thiền phát triển khả năng kham nhẫn phòng hộ, chánh niệm, định và tuệ Minh sát mà thôi.

Thực sự, Đức Phật muốn người hành thiền duy trì việc thực hành một cách không khoan nhượng hơn là cứ thay đổi oai nghi của mình cho đến khi hoàn thành A-la-hán Thánh đạo ngay tại chỗ ấy. Điều này được nói đến trong "Đại Kinh Rừng Sừng Bò" - Mahā Gosinga Suttaṃ (Trung Bộ I):

Giả sử, nếu người hành thiền ngồi tư thế ngồi kiết già, hạ quyết tâm, "Ta sẽ không đứng dậy khỏi thế ngồi kiết già này cho đến khi loại trừ tâm khỏi tham, và đoạn tận hết mọi tâm phiền não.", thời người này được chấp nhận như một người làm chói sáng khu rừng Gosinga. Do đó, những ai dạy rằng nếu một người thực hành kham nhẫn với các cảm thọ khổ, thì giống như ép xác khổ hạnh, là đang xúc phạm những người hành thiền dưới sự hướng dẫn của Đức Phật, và làm hỏng giáo Pháp của Ngài. Hơn nữa, họ còn hủy diệt viễn cảnh của những người hành thiền đang cố gắng hoàn thành định và tuệ Minh sát.

Trong Kinh nói đến Khanti-Saṃvara – Phòng hộ bằng kham nhẫn:

“Này các Tỳ kheo, trong giáo Pháp này, một vị Tỳ kheo có như lý tác ý (suy xét chân chánh) tu tập kham nhẫn với lạnh, nóng, đói, khát, ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, rắn, rít, bò cạp, và những lời mắng nhiếc sỉ vả. Thậm chí vị ấy còn phải kham nhẫn với những đau đớn về thể xác hoặc những bệnh hoạn gay gắt, nghiệt ngã, khủng khiếp và chết người. Này các Tỳ kheo, đối với một vị Tỳ kheo như vậy, những phiền não tàn hại và làm cho đau đớn không còn xảy ra nữa. Vị ấy có thể vượt qua những phiền não như thế với sự trợ giúp của pháp kham nhẫn và chịu đựng.” (Majjhimā I,113)

Đoạn văn vừa đề cập ở trên, nằm trong bài kinh gọi là Kinh Tất Cả các Lậu Hoặc (Sabbāsava Sutta), ở đây Đức Phật đã chỉ dẫn người hành thiền phải chịu đựng ngay cả với cái đau chết người. Điều đó cần phải ghi nhớ trong tâm. Thêm nữa, trong Chú giải, có một số câu chuyện giống như câu chuyện của Trưởng lão Lomasanaga, người đã không từ bỏ quyết tâm, mà dành hết thời gian của mình vào việc thực hành giữa trời trong suốt giai đoạn Antara-ratthaka. Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai tháng cuối cùng của một năm, và được xem như là thời kỳ lạnh nhất. Thậm chí có cả tuyết.

Vì thế, bạn không nên thay đổi oai nghi do cái đau vừa phải như tê cứng, nóng bức, hay đau nhức. Bạn nên duy trì việc quan sát và kham nhẫn với quyết tâm không thay đổi oai nghi. Nếu có thể, thậm chí bạn nên cứ tiếp tục thực hành bất kể đến mạng sống. Nhờ làm như vậy bạn có thể tạo ra Kham nhẫn phòng hộ, tuệ Minh sát và định. Nếu cái đau không thể chịu đựng nổi, thì bạn nên thay đổi oai nghi bằng cách ghi nhận sự thay đổi này thật cẩn thận để cho chánh niệm, định và tuệ Minh sát không bị đánh động.

Có số người giải thích Atta-kilamatha (tự hành xác) theo cách trái ngược lại với giáo Pháp của Đức Phật. Theo họ, thực hành là một hình thức tự hành xác. Sự giải thích như vậy rõ ràng là ngược lại với lời dạy của Đức Phật, vì thậm chí Ngài còn dạy chúng ta thực hành không màng đến mạng sống và chân tay. “Dù chỉ còn lại da và xương, dù máu thịt ta có khô cạn, ta sẽ không ngừng thực hành cho đến khi hoàn thành sự giác ngộ Đạo Quả ta mong muốn” Đức Phật nói chúng ta nên quyết tâm kiên định và tiếp tục thực hành một cách không khoan nhượng. Do đó, một sự thực hành tích cực như thế không thể nói là ép xác Atta-kilamatha vì nó giúp người hành thiền tạo ra định và tuệ Minh sát.

Nói gì đến hành thiền, ngay như việc giữ giới, người ta cũng phải chịu khó chịu khổ ở một mức nào đó, song không thể bảo như thế là hành khổ hạnh ép xác vì nó giúp cho định và tuệ Minh sát phát triển. Chẳng hạn, khi giữ bát quan trai giới hay thập giới, người ta phải nhịn ăn vào buổi chiều, điều này có thể làm khó chịu, đặc biệt đối với những người còn trẻ. Tuy nhiên, không thể nói đó là hành xác vì nó hỗ trợ cho việc hoàn thành giới của một người.

Dĩ nhiên, đối với một số người, đầu tư nỗ lực cho việc giữ giới không sát sanh, v.v… là rất khó, song Đức Phật tán dương nỗ lực này như ‘hiện tại khổ, tương lai lạc’ trong Đại Kinh Pháp hành – Mahā-dhamma-dayada, Mūla paṇnāsa (M. I) như sau:

“Ở đây, này các Tỳ kheo, có người với khổ với ưu, từ bỏ sát sanh, và do duyên từ bỏ sát sanh cảm thọ khổ ưu (đối với 9 giới còn lại cũng vậy). Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, nhất định sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Này các Tỳ kheo, thực hành mười giới như thế được gọi là, ‘hiện tại khổ; tương lai quả báo lạc.’”

Vì thế, một pháp hành không nên xem là tự hành xác khi nó giúp người ta trau dồi giới đức, thiền định và tuệ Minh sát, vì đó là Trung Đạo, Majjhimā-paṭipadā. Trái lại nếu một pháp hành không liên quan đến giới, định và tuệ, dĩ nhiên, pháp hành đó phải được xem như tự hành xác.

Trích "Minh sát thực tiễn", Cố Đại Trưởng lão - Thiền sư Mahāsi Sayādaw
Tỳ khưu Pháp Thông dịch Việt


May be an image of 1 person and text
 
Top