[DỊCH] Bangkok Post: MỘT QUỐC GIA ASEAN CÓ THỂ SẮP XẢY RA KHỦNG HOẢNG

Dầm Thân

Lồn phải lá han
Tôi đang nói về một quốc gia tưởng tượng là thành viên của ASEAN. Quốc gia này có thể tồn tại hoặc không. Để tránh những hậu quả tiêu cực không cần thiết, quốc gia này sẽ không có tên và được gọi là quốc gia "N" với đơn vị tiền tệ là "D". Đất nước này là ngôi sao của ASEAN với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 5 năm là 7% trước khi bùng phát Covid.
Ngay cả trong thời kỳ bùng phát dịch bệnh, quốc gia này vẫn có thể duy trì mức tăng trưởng gần 3,0%. Ngân hàng Thế giới dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 sẽ là 7,2%, cao nhất trong các nước ASEAN.

Thật kinh ngạc, đất nước ngôi sao này đang đứng trước nguy cơ rơi vào khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng Tom Yum Kung của Thái Lan năm 1997.

Chúng tôi biết ba vấn đề về đất nước tưởng tượng này, nhưng chúng tôi không có thông tin rõ ràng về vấn đề thứ tư, vốn dĩ là vấn đề quan trọng nhất. Các vấn đề được biết đến là: (1) thị trường chứng khoán chìm trong sụt giảm kể từ tháng 4 (2) suy giảm thanh khoản trong quý 3, và (3) cạn kiệt dự trữ ngoại hối do thâm hụt cán cân thanh toán.

Vấn đề mà chúng tôi không biết là dữ liệu dự trữ ngoại hối bị thiếu trong tháng Bảy đến tháng Chín. Phân tích dựa trên thông tin này.

Vấn đề đầu tiên: Niềm tin của nhà đầu tư đang bay bổng. Kể từ tháng 4 năm 2022, chỉ số chứng khoán đã giảm mạnh 42,6%. Điều này không nên xảy ra ở một quốc gia có mức tăng trưởng GDP 13,7% trong quý II. Dưới áp lực dòng vốn chảy ra (?), Ngân hàng trung ương đã tăng lãi suất chiết khấu từ 2,5% lên 3,5% vào ngày 22 tháng 9. Ngân hàng đã giữ lãi suất không đổi ở mức 2,5% kể từ tháng 10 năm 2020, bất kể điều gì xảy ra ở thế giới bên ngoài.

Vấn đề thứ hai: Thắt chặt thanh khoản trong nước. Mặc dù ngân hàng trung ương chưa bao giờ thừa nhận đã có dòng vốn chảy ra, nhưng tình hình thanh khoản trong nước khá eo hẹp.

Ngày 7/10, nhiều ngân hàng thương mại đã tăng lãi suất huy động để thu hút người gửi tiền. Dưới đây là lãi suất tiền gửi của một ngân hàng lớn: 7,5% cho khoản tiền gửi 6 tháng, 7,8% cho khoản tiền gửi 9 tháng, 8% cho khoản tiền gửi 12 tháng và 8,4% cho khoản tiền gửi 18 tháng. Đây không phải là mức tăng lãi suất do lạm phát vì tỷ lệ lạm phát chỉ ở mức 3,94% trong tháng 9.

Tình huống này không phải là bình thường đối với tôi. Sẽ không rẻ hơn nhiều nếu các ngân hàng trả lãi suất chiết khấu 3,5% cho ngân hàng trung ương hơn là tăng tiền gửi với chi phí 7,5% và hơn thế nữa? Tình hình có thể tương tự như nửa đầu năm 1997 ở Thái Lan. Ngân hàng Trung ương Thái Lan cảnh báo các tổ chức tài chính phải tìm thanh khoản cho riêng mình hoặc có nguy cơ đóng cửa, điều mà Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã thực sự làm.

Vấn đề thứ ba: Dự trữ ngoại hối cạn kiệt. Vấn đề tồi tệ nhất mà N phải đối mặt, giống như Sri Lanka, là dự trữ ngoại hối không đủ. Dữ liệu dự trữ nước ngoài chỉ có sẵn cho đến tháng 6.

Dữ liệu dự trữ của tháng Sáu đã là một điểm đáng quan tâm. Dự trữ của nước này tương đương với 3,1 tháng nhập khẩu, ở mức an toàn. Theo khuyến nghị của IMF, một quốc gia nên có dự trữ để trang trải các khoản thanh toán nhập khẩu từ 3-6 tháng. Dự trữ thấp hơn mức nhập khẩu tương đương một tháng có nghĩa là đất nước đang rơi vào khủng hoảng. Sri Lanka bắt đầu vào năm 2022 với chỉ 1,5 tháng dự trữ có sẵn.

Nền kinh tế của quốc gia N là một nền kinh tế đang phát triển vượt bậc. Khi nền kinh tế đang phát triển vượt bậc, quốc gia này sẽ sử dụng thu nhập từ nước ngoài để nhập khẩu nguyên liệu thô, dự trữ sản phẩm, nâng cấp nhà máy và cải thiện cơ sở hạ tầng. Người ta sẽ chọn gì nếu một người điều hành một chính phủ thông minh?

Lựa chọn A: giữ nhiều ngoại tệ trong tài khoản Ngân hàng trung ương, tài khoản này sẽ thu được lợi suất 1% đối với trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Lựa chọn B: cung cấp ngoại tệ cho các ngành công nghiệp địa phương thu được 10% lợi nhuận. Đó là lý do tại sao tăng trưởng GDP của quốc gia N cho năm 2019 là 7,2% trong khi tăng trưởng GDP của Thái Lan trong năm đó, ngay cả với thu nhập từ 40 triệu khách du lịch, là 2,2%.

Tuy nhiên, có một ranh giới ở đâu đó, và quốc gia N đã vượt qua ranh giới đó giống như Thái Lan đã lâm nạn vào năm 1997.

Từ năm 1992-1996, Thái Lan đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 7,6%. Một nền kinh tế bùng nổ như hiện nay luôn khát thanh khoản.

Thái Lan đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình bằng cách vay nợ nước ngoài. Đến cuối năm 1996, quốc gia này đã đạt đến tối đa hạn mức vay. Đã đến lúc quay đầu để hạ cánh nhẹ nhàng. Tình hình thanh khoản eo hẹp rõ ràng khi lãi suất cho vay liên ngân hàng tăng gấp đôi. Thay vì chuẩn bị cho một cuộc hạ cánh nhẹ nhàng, chính phủ và Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã phấn đấu đạt mức tăng trưởng 7% cho năm 1997.

Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã thực hiện một động thái không khôn ngoan khi bảo vệ đồng tiền của mình (và hệ thống tỷ giá hối đoái cố định) bằng cách can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối. Nó đã giành chiến thắng trong cuộc chiến đầu cơ tiền tệ vào tháng 3 năm 1997 nhưng phải chịu một khoản lỗ dự trữ nặng nề.

Để che đậy vết thương này, ngân hàng đã thể hiện dự trữ ngoại hối cao hơn thực tế. Làm thế nào điều này được thực hiện sẽ không được tiết lộ. Hãy để tôi nói rằng động thái này giống như giao một khẩu súng cho kẻ thù của bạn để bắn bạn. Những gì xảy ra sau đó đã được biết đến.
Điểm tương đồng giữa nước N và Thái Lan trước năm 1997 là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đòi hỏi mức độ thanh khoản cao liên tục. Điểm khác biệt là nước N đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, nhưng Thái Lan vào năm 1997 đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định trước khủng hoảng.

Vấn đề thứ tư: Thiếu dữ liệu quý thứ ba. Ngân hàng trung ương N đã có thể báo cáo dữ liệu ngoại thương đến tháng 9, cho thấy cán cân thương mại dương là 1,14 tỷ đô la. Nhưng nó chỉ báo cáo dữ liệu dự trữ ngoại hối cho đến tháng Sáu. Đây không phải là do vấn đề thu thập dữ liệu; nó chỉ đơn giản là chọn không báo cáo. Việc này cũng không rõ ràng giống như Trung Quốc, hiện tại cũng đang trì hoãn việc công bố các dữ liệu kinh tế quan trọng.

Trong quý 3 này, đồng đô la Mỹ tăng giá 7,7% so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới. Nhưng đồng tiền D chỉ mất giá 2,6% so với đồng đô la.

Ngân hàng trung ương N có can thiệp không ngừng để giữ giá trị đồng tiền ổn định bất chấp dòng vốn chảy ra lớn? Với thực tế là thanh khoản nội bộ đột ngột trở nên eo hẹp và nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu để lấy tiền mặt, các bằng chứng dường như chỉ ra điều đó.

Mọi thứ có vẻ tồi tệ hơn vào tháng 10. Với dữ liệu cho đến ngày 18 tháng 10, đồng tiền D giảm thêm 2,4%, cho thấy rằng tiền tiếp tục chảy ra khỏi đất nước. Lần này không phải là chênh lệch lãi suất mà là thiếu niềm tin vào nền kinh tế.

Một điểm đáng quan tâm khác là nợ nước ngoài của quốc gia N là 130 tỷ USD, trong đó 26,6 tỷ là nợ ngắn hạn. Nếu nợ ngắn hạn không được gia hạn hoặc thu hồi, dự trữ ngoại hối của nước N có thể giảm xuống dưới mức hai tháng nhập khẩu.

Đây thực sự là một cuộc khủng hoảng trong quá trình sản xuất. Quốc gia N phải ngay lập tức khôi phục niềm tin của nhà đầu tư bằng cách đảm bảo đủ dự trữ ngoại hối để trang trải cho bốn tháng nhập khẩu, nếu không quốc gia này có thể gặp rủi ro giống như Thái Lan vào năm 1997

Bài hay bên kia Dịch nên lưu lại.
 
Cái nước N mà ngôi sao đang lên, là cái nước đang có vận nước đang lên phải không các tml
 
Tình hình hiện giờ có vẻ đung theo nó nói.
Và cái quan trọng là Nó dựa quá nhiều vào fdi đi, Năng lực sx,tự chủ thì quá tệ.
Kể cả so với Thái thời đó cũng ko thể bằng nó về năng lực sx nội tại đc.
Lại dính cái suy thoái,kèm dịch bệnh nữa thì......

Lâu nay tao toàn ăn cơm rang rồi.
 
Kinh tế khó khăn thôi. Chứ VN không chết đói đc đâu mà lo. Nước nông nghiệp thì sợ cái lồn gì. Sau đợt này cho chúng nó thấy được sản xuất mới là mấu chốt của một đất nước.
 
Kiếm tiền, cuộc sống.

Đm giờ còn phải lo Đói hay No nữa thì rẻ rách quá.
 
Tao đéo tin sẽ sụp được. Bài báo này quy chụp vấn đề bảo VN thiếu ngoại tệ, dòng tiền thiếu. Thực tế thì đó usd tăng cao, fed tăng lãi suất liên tục nên dòng vốn ngoại đang dời khỏi VN là đúng nhưng thanh khoản cạn kiệt đến mức ngân hàng tế bỏ mặc các ngân hàng thương mại là sai.
Thực tế thì ngân hàng TW các tháng gần đây liên tục phát hành trái phiếu để hút dòng tiền đang lưu thông về để giảm thiểu lạm phát. Tình hình dòng tiền, thành khoản khô hạn vì cuối năm nay và đầu năm sau là đến thời điểm đáo hạn trái phiếu, với việc chính phủ mạnh tay với FLC và VTP thì các công ty phát hành trái phiếu, các ngân hàng và tổ chức tín dụng bảo lãnh và môi giới trái phiếu bắt buộc phải hút dòng tiền về để thành toán trái phiếu nên mới xảy ra tình trạng bán tháo cổ phiếu của tự doanh và tự ý tăng lãi xuất thủ hút gửi tiền ở một số ngân hàng. Cộng thêm các tin đồn thất thiệt làm xáo trộn thị trường tài chính làm mất niềm tin của người gửi tiền làm các ngân hàng phải tăng lãi suất để trấn an người gửi.

Thực tế thì vẫn còn tốt chán nếu so với năm 2009-2011.
 

So sánh Việt Nam với khủng hoảng Thái Lan năm 1997 là rất thiếu khoa học và thực tiễn

Đặt vấn đề nhìn vào dự trữ ngoại hối để thấy sắp có khủng hoảng cũng giống như “thấy lính phòng cháy nghĩa là sắp có hoả hoạn đâu đó”, là cách lập luận non nớt, thiếu cơ sở khoa học và thực tế

Vài ngày qua xuất hiện thông tin đề cập đến quốc gia N – với các dữ liệu khá tương đồng với Việt Nam – đang tiến gần cuộc khủng hoảng giống như khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997.

Có 3 lý do hỗ trợ cho nhận định từ thông tin này: (1) thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh nhiều tháng (2) thanh khoản bị thắt chặt trong quý 3 và (3) Ngân hàng trung ương can thiệp bán (mất) dự trữ ngoại hối. Nhưng đâu thể so sánh tình hình Việt Nam hiện tại với bối cảnh khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 vì có quá nhiều khác biệt: như thể tìm mọi cách gán ghép lẩu Thái “Tom yum kung” giống với phở Việt (khủng hoàng tài chính Thái Lan còn được gọi là cuộc khủng hoảng “Tom yum kung”).

Khủng hoảng tài chính Thái Lan năm1997 còn được gọi là một "cơn bão hoàn hảo": Đó là sự kết hợp của nhiều điều kiện khác nhau, không chỉ tạo ra sự hỗn loạn tài chính và kinh tế, mà còn khuếch đại tác động của chúng lên rất nhiều.

Một trong số các điều kiện chủ yếu mang tính quyết định: Thái Lan áp dụng chế độ tỷ giá cố định; thâm hụt tài khoản vãng lai lớn tạo ra áp lực giảm giá đồng nội tệ, khuyến khích các cuộc tấn công đầu cơ; các công ty trong nước nghiện vay nợ nước ngoài bằng USD quá lớn.

Cuối cùng, cơ chế giám sát yếu kém đối với hệ thống ngân hàng – chẳng hạn nợ xấu ngân hàng Thái lên đến 50%; thâm hụt ngân sách lớn kết hợp với nợ công tăng cao, tất cả đã góp phần phóng đại cuộc khủng hoảng, làm cho tác động tồi tệ hơn khi các vấn đề vừa mới xuất hiện. Chúng tạo thành một cơn sóng thần hoảng loạn khủng khiếp với 10.400 người tự sát khi khủng hoảng lan rộng ra châu Á. Rất dễ kiểm chứng bằng dữ liệu, bối cảnh hiện tại cho thấy Việt Nam không có bất kỳ điều kiện và yếu tố nào hỗ trợ (lại phải thoả mãn điều kiện kết hợp với nhau cùng lúc) giống như khủng hoảng 1997.

Một phần tư thế kỷ trôi qua, khủng hoảng 1997 cho đến nay là cuộc khủng hoảng cuối cùng trong chuỗi dài các khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến các nền kinh tế mới nổi thập niên 1980 và 1990. Hiện tại, với quyết tâm chống lạm phát với bất kỳ cái giá phải trả, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất một cách không thương tiếc. Giá USD tăng vọt, các điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt, kinh tế thế giới có khả năng rơi vào suy thoái trên diện rộng.

.
Kể từ khi Fed tăng lãi suất đầu năm đến giờ, ngoại trừ khủng hoảng nợ có thể xảy ra do một vài nước vay nợ nước ngoại tệ quá nhiều, chưa có bất kỳ một cuộc tháo chạy vốn ào ạt nào khỏi các nền kinh tế mới nổi. Trong đó, Việt Nam là quốc gia đang thu hút vốn ròng ấn tượng nhất khu vực.
Như một sự mặc định, hầu như ai cũng nghĩ các nạn nhân đầu tiên sẽ là các thị trường mới nổi. Nhưng thay vào đó là một sự bình tĩnh đến kỳ lạ. Chưa có bất kỳ một tổ chức hoặc nghiên cứu quốc tế có uy tín nào dự báo sẽ có khủng hoảng tài chính giống như năm 1997 tại các nền kinh tế mới nổi.

Ngược lại, sự hoảng loạn đang xảy ra tại các nền kinh tế phát triển khi tiền tệ liên tục mất giá kỷ lục. Kể từ khi Fed tăng lãi suất đầu năm đến giờ, ngoại trừ khủng hoảng nợ có thể xảy ra do một vài nước vay nợ nước ngoại tệ quá nhiều, chưa có bất kỳ một cuộc tháo chạy vốn ào ạt nào khỏi các nền kinh tế mới nổi. Trong đó, Việt Nam là quốc gia đang thu hút vốn ròng ấn tượng nhất khu vực.

Khả năng linh hoạt của Việt Nam nói riêng và các nền kinh tế mới nổi nói chung chỉ là một phần đương nhiên từ việc học hỏi sai lầm các khủng hoảng tài chính trong lịch sử.

Các nghiên cứu cho thấy, 5 yếu tố sau khiến các nước có khả năng phục hồi tốt sau mỗi cú sốc lớn: (1) thị trường tài chính phát triển sâu rộng (2) các ngân hàng được quản lý tốt với các chuẩn mực quản trị ngân hàng quốc tế (3) chính sách tài khóa thận trọng với nợ công thấp, nhất là nợ nước ngoài bị khống chế và giám sát rất nghiêm ngặt (4) không có thâm hụt tài khoản vãng lai lớn (5) các ngân hàng trung ương độc lập hơn và đã áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt cùng với việc tiếp cận lạm phát mục tiêu. Nếu cho điểm các yếu tố trên, Việt Nam ắt sẽ nằm trong top các nền kinh tế mới nổi (nhất là các yếu tố 3,4,5), như đánh giá của nhiều định chế quốc tế thời gian qua.

Còn nếu chỉ nhìn vào việc Ngân hàng nhà nước can thiệp làm giảm dự trữ ngoại hối để cho rằng sắp có một dấu hiệu xấu gì đó, càng sai lầm. Năm 1982, các nước phát triển G7 công bố kết luận, can thiệp tiền tệ có rất ít tác dụng lâu dài. Các bằng chứng cũ cho thấy, một khi thiếu hụt cầu USD xảy ra trên diện rộng và kéo dài, can thiệp của ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại hối là không hiệu quả.

Nhưng nhờ vào những tiến bộ vượt bậc của công nghệ xử lý dữ liệu và các phát triển mới về lý thuyết và thực nghiệm, nghiên cứu vừa công bố vào tháng 6-2022 bởi các tác giả của Viện Hoover và IMF, đã đảo ngược các lập luận truyền thống tồn tại hàng thập kỷ nay. Kết luận từ bài báo cho rằng, nếu một đồng tiền đang bị mất giá hơn 10%, việc (bán) dự trữ ngoại hối khoảng 0,1% GDP để can thiệp trên thị trường có thể làm đồng tiền mạnh hơn 4%. Nếu can thiệp có hệ thống trong nhiều quý, kết quả càng tốt hơn.

Biết rằng mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng nếu làm một phép tính thô, việc Ngân hàng nhà nước thời gian qua can thiệp vào thị trường khoảng 20 tỷ USD, khoảng 5% GDP, cho dù điều này không làm thay đổi cục diện trong dài hạn, tác động củng cố giá trị đáng kể tiền đồng trong thời gian qua là điều không thể phủ nhận.

Can thiệp ngoại hối không chỉ đơn thuần nâng hay giảm giá tiền tệ mà còn hướng đến điều chỉnh những sai lệch để đưa tỷ giá tìm điểm cân bằng mới khi các điều kiện thị trường thay đổi quá lớn. Vì vậy, cách đặt vấn đề hãy nhìn vào dự trữ ngoại hối để thấy sắp có khủng hoảng cũng giống như: “thấy lính phòng cháy nghĩa là sắp có hoả hoạn đâu đó”. Cách lập luận non nớt này tự bản thân đã cho thấy chất lượng thông tin lan truyền về dấu hiệu khủng hoảng ở Việt Nam mấy ngày gần đây rất thiếu cơ sở khoa học và thực tế
 

So sánh Việt Nam với khủng hoảng Thái Lan năm 1997 là rất thiếu khoa học và thực tiễn

Đặt vấn đề nhìn vào dự trữ ngoại hối để thấy sắp có khủng hoảng cũng giống như “thấy lính phòng cháy nghĩa là sắp có hoả hoạn đâu đó”, là cách lập luận non nớt, thiếu cơ sở khoa học và thực tế

Vài ngày qua xuất hiện thông tin đề cập đến quốc gia N – với các dữ liệu khá tương đồng với Việt Nam – đang tiến gần cuộc khủng hoảng giống như khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997.

Có 3 lý do hỗ trợ cho nhận định từ thông tin này: (1) thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh nhiều tháng (2) thanh khoản bị thắt chặt trong quý 3 và (3) Ngân hàng trung ương can thiệp bán (mất) dự trữ ngoại hối. Nhưng đâu thể so sánh tình hình Việt Nam hiện tại với bối cảnh khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 vì có quá nhiều khác biệt: như thể tìm mọi cách gán ghép lẩu Thái “Tom yum kung” giống với phở Việt (khủng hoàng tài chính Thái Lan còn được gọi là cuộc khủng hoảng “Tom yum kung”).

Khủng hoảng tài chính Thái Lan năm1997 còn được gọi là một "cơn bão hoàn hảo": Đó là sự kết hợp của nhiều điều kiện khác nhau, không chỉ tạo ra sự hỗn loạn tài chính và kinh tế, mà còn khuếch đại tác động của chúng lên rất nhiều.

Một trong số các điều kiện chủ yếu mang tính quyết định: Thái Lan áp dụng chế độ tỷ giá cố định; thâm hụt tài khoản vãng lai lớn tạo ra áp lực giảm giá đồng nội tệ, khuyến khích các cuộc tấn công đầu cơ; các công ty trong nước nghiện vay nợ nước ngoài bằng USD quá lớn.

Cuối cùng, cơ chế giám sát yếu kém đối với hệ thống ngân hàng – chẳng hạn nợ xấu ngân hàng Thái lên đến 50%; thâm hụt ngân sách lớn kết hợp với nợ công tăng cao, tất cả đã góp phần phóng đại cuộc khủng hoảng, làm cho tác động tồi tệ hơn khi các vấn đề vừa mới xuất hiện. Chúng tạo thành một cơn sóng thần hoảng loạn khủng khiếp với 10.400 người tự sát khi khủng hoảng lan rộng ra châu Á. Rất dễ kiểm chứng bằng dữ liệu, bối cảnh hiện tại cho thấy Việt Nam không có bất kỳ điều kiện và yếu tố nào hỗ trợ (lại phải thoả mãn điều kiện kết hợp với nhau cùng lúc) giống như khủng hoảng 1997.

Một phần tư thế kỷ trôi qua, khủng hoảng 1997 cho đến nay là cuộc khủng hoảng cuối cùng trong chuỗi dài các khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến các nền kinh tế mới nổi thập niên 1980 và 1990. Hiện tại, với quyết tâm chống lạm phát với bất kỳ cái giá phải trả, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất một cách không thương tiếc. Giá USD tăng vọt, các điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt, kinh tế thế giới có khả năng rơi vào suy thoái trên diện rộng.

.
Kể từ khi Fed tăng lãi suất đầu năm đến giờ, ngoại trừ khủng hoảng nợ có thể xảy ra do một vài nước vay nợ nước ngoại tệ quá nhiều, chưa có bất kỳ một cuộc tháo chạy vốn ào ạt nào khỏi các nền kinh tế mới nổi. Trong đó, Việt Nam là quốc gia đang thu hút vốn ròng ấn tượng nhất khu vực.

Như một sự mặc định, hầu như ai cũng nghĩ các nạn nhân đầu tiên sẽ là các thị trường mới nổi. Nhưng thay vào đó là một sự bình tĩnh đến kỳ lạ. Chưa có bất kỳ một tổ chức hoặc nghiên cứu quốc tế có uy tín nào dự báo sẽ có khủng hoảng tài chính giống như năm 1997 tại các nền kinh tế mới nổi.

Ngược lại, sự hoảng loạn đang xảy ra tại các nền kinh tế phát triển khi tiền tệ liên tục mất giá kỷ lục. Kể từ khi Fed tăng lãi suất đầu năm đến giờ, ngoại trừ khủng hoảng nợ có thể xảy ra do một vài nước vay nợ nước ngoại tệ quá nhiều, chưa có bất kỳ một cuộc tháo chạy vốn ào ạt nào khỏi các nền kinh tế mới nổi. Trong đó, Việt Nam là quốc gia đang thu hút vốn ròng ấn tượng nhất khu vực.

Khả năng linh hoạt của Việt Nam nói riêng và các nền kinh tế mới nổi nói chung chỉ là một phần đương nhiên từ việc học hỏi sai lầm các khủng hoảng tài chính trong lịch sử.

Các nghiên cứu cho thấy, 5 yếu tố sau khiến các nước có khả năng phục hồi tốt sau mỗi cú sốc lớn: (1) thị trường tài chính phát triển sâu rộng (2) các ngân hàng được quản lý tốt với các chuẩn mực quản trị ngân hàng quốc tế (3) chính sách tài khóa thận trọng với nợ công thấp, nhất là nợ nước ngoài bị khống chế và giám sát rất nghiêm ngặt (4) không có thâm hụt tài khoản vãng lai lớn (5) các ngân hàng trung ương độc lập hơn và đã áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt cùng với việc tiếp cận lạm phát mục tiêu. Nếu cho điểm các yếu tố trên, Việt Nam ắt sẽ nằm trong top các nền kinh tế mới nổi (nhất là các yếu tố 3,4,5), như đánh giá của nhiều định chế quốc tế thời gian qua.

Còn nếu chỉ nhìn vào việc Ngân hàng nhà nước can thiệp làm giảm dự trữ ngoại hối để cho rằng sắp có một dấu hiệu xấu gì đó, càng sai lầm. Năm 1982, các nước phát triển G7 công bố kết luận, can thiệp tiền tệ có rất ít tác dụng lâu dài. Các bằng chứng cũ cho thấy, một khi thiếu hụt cầu USD xảy ra trên diện rộng và kéo dài, can thiệp của ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại hối là không hiệu quả.

Nhưng nhờ vào những tiến bộ vượt bậc của công nghệ xử lý dữ liệu và các phát triển mới về lý thuyết và thực nghiệm, nghiên cứu vừa công bố vào tháng 6-2022 bởi các tác giả của Viện Hoover và IMF, đã đảo ngược các lập luận truyền thống tồn tại hàng thập kỷ nay. Kết luận từ bài báo cho rằng, nếu một đồng tiền đang bị mất giá hơn 10%, việc (bán) dự trữ ngoại hối khoảng 0,1% GDP để can thiệp trên thị trường có thể làm đồng tiền mạnh hơn 4%. Nếu can thiệp có hệ thống trong nhiều quý, kết quả càng tốt hơn.

Biết rằng mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng nếu làm một phép tính thô, việc Ngân hàng nhà nước thời gian qua can thiệp vào thị trường khoảng 20 tỷ USD, khoảng 5% GDP, cho dù điều này không làm thay đổi cục diện trong dài hạn, tác động củng cố giá trị đáng kể tiền đồng trong thời gian qua là điều không thể phủ nhận.

Can thiệp ngoại hối không chỉ đơn thuần nâng hay giảm giá tiền tệ mà còn hướng đến điều chỉnh những sai lệch để đưa tỷ giá tìm điểm cân bằng mới khi các điều kiện thị trường thay đổi quá lớn. Vì vậy, cách đặt vấn đề hãy nhìn vào dự trữ ngoại hối để thấy sắp có khủng hoảng cũng giống như: “thấy lính phòng cháy nghĩa là sắp có hoả hoạn đâu đó”. Cách lập luận non nớt này tự bản thân đã cho thấy chất lượng thông tin lan truyền về dấu hiệu khủng hoảng ở Việt Nam mấy ngày gần đây rất thiếu cơ sở khoa học và thực tế
hay lắm thằng 9 điểm 3 môn
 
Top