Có Hình Tất tần tật về các Triều đại và các vua (kèm theo năm trị vì) của lịch sử Việt Nam. Tml nào dốt sử, lười học thì vào đây đọc qua là chém gió được.

Nguyendamdang1301

Khổ vì lồn

Các triều đại phong kiến Việt Nam

Lịch sử Việt Nam trong hàng ngàn năm qua cũng đã từng trải qua giai đoạn phong kiến. Trong đó phải kể đến 10 triều đại phong kiến tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam như sau:
(Chú ý : Bà Trưng, bà Triệu, Lý Nam Đế chưa được gọi là các triều đại, mà chỉ xưng Vương và tồn tại rất ngắn ngủi )

1. Triều đại nhà Ngô (939 – 967)

Trong triều đại nhà Ngô, quốc hiệu của nước ta là Vạn Xuân, kinh độ đặt tại Cổ Loa.

Sau khi Ngô Quyền đánh đuổi được quân Nam Hán đã xưng vương và thành lập nên triều Ngô.

Kể từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô năm 944, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng và đem quân đánh chiếm lẫn nhau từ đó dẫn đến hậu quả là loạn 12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm (944-968). Sau 28 năm trị vì, nhà Ngô bị tan rã dưới thời Ngô Xương Xí.

Triều đại nhà Ngô đã trải qua 5 vị vua cai trị:

  • 1. Tiền Ngô Vương - Ngô Quyền ( 939-944):
  • 2. Dương Bình Vương - Dương Tam Kha (Là em vợ là cướp ngôi) (944-950)
  • 3. Nam Tấn Vương - Ngô Xương Căn (con thứ hai của Ngô Quyền) (950-965)
  • 4. Thiên Sách Vương - Ngô Xương Ngập (Cháu Ngô Quyền) 951-959)
  • 5. Ngô Sứ Quân - Ngô Xương Xí (965)

2. Triều đại nhà Đinh (968 – 980)

Dưới triều đại này, nước ta có quốc hiệu là Đại Cồ Việt.

Đinh Bộ Lĩnh khi dẹp loạn được 12 sứ quân đã thống nhất đất nước và tạo nên nhà Đinh với tên nước là Đại Cồ Việt, đóng kinh tại Hoa Lư. Sau khi vua Đinh và con trai trưởng bị ám hại năm 979 thì Đinh Toàn mới lên 6 tuổi được các triều thần đưa lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó nhà Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga (vợ của Đinh Tiên Hoàng, mẹ đẻ của Đinh Toàn), thể theo nguyện vọng các tướng sĩ, đã trao áo "Long Cổn" (biểu tượng của ngôi vua) cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn, tức là Lê Đại Hành.

Từ đây Triều đại nhà Đinh chấm dứt. Trong 12 năm trị vì, Triều đại nhà Đinh trải qua 2 đời vua là

  • 1. Đinh Tiên Hoàng - Đinh Bộ Lĩnh (968-979)
  • 2. Đinh Phế Đế - Đinh Toàn (979-980)

3. Triều đại Tiền Lê (980 – 1010)

Thời kỳ này nước ta có quốc hiệu là Đại Cồ Việt, kinh đô tại Hoa Lư.

Trước tình hình nhà Tống lăm le xâm lược nên Thái hậu Dương Vân Nga đã hỗ trợ Lê Hoàn lên ngôi vua, mở ra triều Tiền Lê để lãnh đạo quân đội chống giặt ngoại xâm.

Sau 30 năm tồn tại triều Tiền Lê được trao cho vua Lê Ngoại Triều – người mang nhiều tiếng xấu trong sử sách. Lê Long Đĩnh làm việc càn dỡ, giết Vua cướp ngôi, tàn bạo, róc mía trên đầu nhà sư... Do chơi bời trác táng nên Lê Ngoại Triều làm vua được 4 năm (1005 - 1009) thì mất, thọ 24 tuổi. Khi Ông mất, con tên là Sạ còn bé, dưới sự đạo diễn của quan Chi Hậu Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế.

Nhà Tiền Lê cai trị đất nước 29 năm với 3 đời:

  • 1. Lê Đại Hành - Lê Hoàn (980-1005)
  • 2. Lê Trung Tông - Lê Long Việt (1005)
  • 3. Lê Ngoại Triều - Lê Long Đĩnh (1005 - 1009)
Các triều đại phong kiến việt nam

Các triều đại phong kiến việt nam

4. Triều đại nhà Lý (1010 – 1225)

Thời kỳ này nước ta có quốc hiệu là Đại Cồ Việt

Đại Việt thời nhà Lý tồn tại lâu dài hơn 200 năm lịch sử, có nhiều thành tựu đáng chú ý trong nhiều lĩnh vực khác nhau như Nho giáo, quân đội, nghệ thuật công trình kiến trúc,.. Trong triều đại này Phật giáo rất phát triển và được các vua Lý sùng bái. Đây cũng là triều đại duy nhất trong lịch sử có nữ hoàng lên ngôi trị vì đất nước.

Dưới sự dẫn dắt của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông bị ép đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) niên hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Cũng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông Trần Thừa được đưa vào hầu cận Lý Chiêu Hoàng và Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.

Ngày 21 tháng 10 năm 1225, Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ, Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng lên triều đại nhà Trần.

Thời Lý trị vì đất nước qua 9 đời Vua trong 216 năm:

  • 1. Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn (1010 – 1028) năm 1010 dời đô về Thăng Long
  • 2. Lý Thái Tông - Lý Phật Mã (1028 – 1054) năm 1054 đổi tên Quốc hiệu là Đại Việt kinh đô tại Thăng Long
  • 3. Lý Thánh Tông - Lý Nhật Tôn (1054 – 1072)
  • 4. Lý Nhân Tông - Lý Càn Đức (1072 – 1128) - Quốc tử giám đầu tiên được lập vào năm 1076 tại Kinh thành Thăng Long
  • 5. Lý Thần Tông - Lý Dương Hoán (1128 - 1138)
  • 6. Lý Anh Tông - Lý Thiên Tộ (1138 - 1175)
  • 7. Lý Cao Tông - Lý Long Trát (1176 - 1210)
  • 8. Lý Huệ Tông - Lý Sảm (1211 - 1224)
  • 9. Lý Chiêu Hoàng - Lý Phật Kim (1224 - 1225)

5. Triều đại nhà Trần (1225 – 1400)

Quốc hiệu của nước ta dưới triều đại này là Đại Việt.

Trong 10 triều đại phong kiến Việt Nam thì triều đại nhà Trần là giai đoạn hùng mạnh nhất của lực lượng quân đội. Nước ta đã chiến thắng nhiều lần xâm phạm của các giặc Nguyên, Mông Cổ nhờ đội binh tinh nhuệ và nhiều tướng tài dẫn dắt. Nổi tiếng nhất là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.

Thiếu Đế là vị vua cai trị cuối cùng của triều đại nhà Trần, tên huý là Trần Án, kế nghiệp khi mới lên 3 tuổi. Hồ Quý Ly khi đó tự xưng là Khâm đức Hưng liệt Đại Vương. Ngày 28/2/1400, Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế nhường ngôi, phế làm Bảo Ninh Đại Vương.

Đời Trần cai trị đất nước trong vòng 175 năm với 12 đời Vua:

  • 1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 - 1258)
  • Chiến tranh Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1258
  • 2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 - 1278)
  • 3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279-1293)
  • 4. Trần Anh Tông (1293 - 1314)
  • 5. Trần Minh Tông (1314 - 1329)
  • 6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341)
  • 7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)
  • 8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)
  • 9. Trần Duệ Tông (1372-1377)
  • 10. Trần Phế Đế (1377-1388)
  • 11. Trần Thuận Tông (1388-1398)
  • 12. Trần Thiếu Đế (1398-1400)

6. Triều đại nhà Hồ (1400 – 1407)

Quốc hiệu nước ta dưới triều nhà Hồ là Đại Ngu, kinh đô tai Tây Đô (Thanh Hóa).

Đây là triều đại phong kiến ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam chỉ tồn tại trong vòng 7 năm.

Cuối thời nhà Trần dưới thời vua Trần Nghệ Tông thì Hồ Quý Ly rất được vua trọng dụng. Dần về sau binh quyền lớn mạnh và lúc vua Trần Nghệ Tông mất thì ông bức vua Trần Thiếu Đế dời đô vào Thanh Hóa, giết hàng loạt quân thần và tuất ngôi vua, tự phong đế. Nhà Hồ từ đó được lập nên.

Năm 1406 Nhà Minh lấy cớ Hồ Qúy Ly cướp ngôi nhà Trần nên đã đem 80 vạn quân sang đánh chiếm nước ta. Quân dân nhà Hồ đã quyết liệt chông trả nhưng thất bại. Ngày 17/6/1407, quân Minh bắt được cha con Hồ Qúy Ly kết thúc 7 năm ngắn ngủi của Nhà Hồ.

Nhà Hồ (1400 – 1407) 7 năm với 2 đời Vua đổi tên Quốc hiệu là Đại Ngu

  • 1. Hồ Quý Ly (1400-1401)
  • 2. Hồ Hán Thương (1401-1407)
Các triều đại phong kiến việt nam

Các triều đại phong kiến việt nam

7. Triều đại nhà Hậu Lê (1428 – 1788)

Quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ là Đại Việt, kinh đô tại Đông Kinh (Hoàng thành Thăng Long ngày nay)

Ngày 7/2/1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Có quân sư Nguyễn Trãi dâng sách Bình Ngô nhằm thu phục lòng người, cháu nội của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán là Trần Nguyên Hãn và nhiều nhân tài, hào kiệt các nơi tham gia. Ngày 3/1/1428, nghĩa quân hoàn toàn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập nên triều đại nhà Lê. Sử gọi là Hậu Lê để phân biệt với Tiền Lê 980-1009do Lê Hoàn sáng lập.

Triều đại này là triều đại dài nhất trong lịch sử nước ta với 355 năm trị vì. Dưới thời Hậu Lê thì nước ta đã có nhiều phát triển từ quân sự, kinh tế, lãnh thổ. Nước ta đạt được nhiều sự thịnh vượng nhất. Trong triều đại phong kiến Hậu Lê trải qua 26 đời vua. Trong đó thời Lê sơ là 10 vị vua và thời nhà Lê Trung Hưng là 16 vị vua.

Lê sơ - Hậu Lê trải qua 10 đời vua trong 100 năm:

  • Lê Thái Tổ - Lê Lợi (1428-1433)
  • Lê Thái Tông - Lê Nguyên Long (1433-1442)
  • Lê Nhân Tông - Lê Bang Cơ (1442-1459)
  • Lê Thánh Tông - Lê Tư Thành (1460-1497)
  • Lê Hiến Tông - Lê Sanh (1498-1504)
  • Lê Túc Tông - Lê Thuần (6/6/1504-7/12/1504)
  • Lê Uy Mục - Lê Tuấn (1505-1509)
  • Lê Tương Dực - Lê Oanh (1509-1516)
  • Lê Chiêu Tông - Lê Y (1516-1522)
  • Lê Cung Hoàng - Lê Xuân (1522-1527)
Ngày 15/6/1527, Mạc Đăng Dung đem quân từ Cổ Trai vào kinh đô Thăng Long ép vua phải nhường ngôi, bắt Vua và Thái hậu tự tử. Như vậy Lê Cung Hoàng ở ngôi được 5 năm, thọ 21 tuổi, là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Hậu Lê.

8. Triều đại nhà Mạc (1527 – 1593)

Quốc hiệu nước ta thời kỳ này là Đại Việt, đặt kinh đô tại Cao Bình - TP Cao Bằng ngày nay

Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Cung Hoàng tự xưng đế và lập ra nhà Mạc. Triều đại này đánh đấu sự chia cắt thành 2 triều đại Nam triều và Bắc triều của nước ta. Trong đó triều Mạc nằm ở Bắc triều.

Sau 66 năm tồn tại, đến thời vua Mạc Toàn chiến đấu với quân Nam triều của nhà Lê – Trịnh thất bại. Chấm dứt triều đại nhà Mạc. Triều đại nhà Mạc trải qua 6 đời vua trị vì:

  • Mạc Thái Tổ - 1527-1529
  • Mạc Mục Tông - 1562-1592
  • Mạc Cảnh Tông - 1592-1593
  • Mạc Đại Tông - 1593-1625
  • Mạc Minh Tông - 1638-1677
  • Mạc Đức Tông - 1681-1683 (cuối cùng) Tàn dư họ mạc còn tồn tại đến năm 1593

9. Triều đại thời Tây Sơn (1788 – 1802)

Quốc hiệu lúc bấy giờ là Đại Việt, kinh đô tại Qui Nhơn và Phú Xuân (Huế)

Anh em nhà Tây Sơn của Nguyễn Huệ đã khởi nghĩa để thống nhất Đàng Trong. Đến khi Nguyễn Phúc Ánh hòng muốn lấy lại cơ nghiệp nên đã cấu kết giặc Xiêm và vua Lê cấu kết giặc Thanh để đem quân đánh chiếm nước ta. Lúc này buộc Nguyễn Huệ phải lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung hoàng đế để đem quân lật đổ Đàng Ngoài, diệt giặc xâm lược.

Khi vua Quang Trung đang định chuẩn bị đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792). Con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi không có người lãnh đạo đủ năng lực, nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ lục đục, xảy ra tranh chấp. Giữa năm 1802 Nguyễn Ánh (tàn dư của đàng trong) tiến ra chiếm được Thăng Long.

Nguyễn Ánh đã trả thù những người theo Tây Sơn vô cùng tàn bạo: Mộ của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã thành bột nhồi vào thuốc súng và bắn đi, Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, Trần Quang Diệu bị chém đầu.

10. Triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945)

Các triều đại phong kiến việt nam

Các triều đại phong kiến việt nam
Nước ta thời kỳ này có Quốc hiệu là Việt Nam, kinh đô tại Huế.

Đây là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến của nước ta. Vào thời nhà Nguyễn nước ta có phần lãnh thổ rộng lớn nhất.

Nguyễn Ánh lên ngôi nãm 1802 và lập ra triều Nguyễn với 13 đời Vua trong 143 năm:

  • 1. Nguyễn Phúc Ánh (1802-1820) Sáng lập nhà Nguyễn
  • 2. Nguyễn Phúc Đảm - Minh Mạng (1820 - 1841) quốc hiệu được đổi thành Đại Nam
  • 3. Nguyễn Phúc Miên Tông - Thiệu Trị (1841 - 1847)
  • 4. Nguyễn Phúc Hồng Nhậm - Tự Đức (1847-1883)
  • 5. Nguyễn Phúc Ưng Chân - Dục Đức (1883)
  • 6. Nguyễn Phúc Hồng Dật - Hiệp Hòa (1883)
  • 7. Nguyễn Phúc Ưng Đăng - Kiến Phúc (1883-1884)
  • 8. Nguyễn Phúc Ưng Lịch - Hàm Nghi (1884-1885)
  • 9. Nguyễn Phúc Ưng Kỷ - Đồng Khánh (1885-1889)
  • 10. Nguyễn Phúc Bửu Lân - Thành Thái (1889-1907)
  • 11. Nguyễn Phúc Vĩnh San - Duy Tân (1907 - 1916)
  • 12. Nguyễn Phúc Bửu Đảo - Khải Định (1916 - 1925)
  • 13. Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy - Bảo Đại (1925 - 1945)
 
Sửa lần cuối:
hên là có Nguyễn Ánh chứ để đám thổ phỉ trị vì thêm mấy chục năm thì chỉ có ăn cứt
Chính xác. Với tao thì Nguyễn Ánh là người có công rất lớn với lịch sử Vn. Nhưng đương nhiên là nhà Nguyễn không được lịch sử hiện đại công nhận điều đó.
Nhà Trần lật xong nhà Lý còn giết rất nhiều con em họ Lý, bắt đổi họ Lý sang các họ khác.
Sau khi lật đổ xong nhà Nguyễn, dòng tộc Hoàng Gia ko bị giết, bắt là còn may. Ở đó mà đòi công, đòi được vinh danh. Lịch sử thuộc về kẻ mạnh.
 
Thiếu triều 9 chùa Nguyễn mày. Còn k có khúc Nguyễn Kim tiêu diệt nhà Mạc và khôi phục nhà Lê vs vua Lê Duy Ninh
 
Học đến Trịnh Nguyễn phân tranh thì tao chịu khó nhớ vãi 300 nội chiến đằng trong đằng ngoài
 
Thế còn 100 năm Pháp thuộc là do ai :))
Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan bất cứ nước lồn nào trong đây đã nhắm tới Đông Dương thì 1000 thằng thổ phỏ Nguyễn Huệ sống dậy cũng ăn đb, ăn cứt thôi thằng ngu.
M quên là cái xứ bắc kỳ của m Pháp nó mới hù thôi là sợ đái ra quần trước hết rồi hả
 
. Lên. Mời các nhà sử học vào phân tích, fan anh huệ và fan anh ánh vào var đi
 
Có vẻ là lão nào lật mà ko thân tàu xì là lại bị nó oánh để bình định nhỉ?
 
Lễ hội
Phóng túng quá đáng, đến mức suồng sã. Người nghèo cũng bất cần đời. Sợ ra ngoài mùng một tết – sợ điều xấu. Bọn trộm rình rập khắp nơi, ám hại người trên đường.
Các làng quê có nhà hát trò, chèo tuồng. Các loại quần áo rất kỳ cục, vay mượn từ Trung Hoa nhưng lại làm xấu đi, quê kệch hơn. Nội dung tích trò là ca ngợi vua chúa và người có công với nước, xen vào chuyện tình yêu và chuyện phiêu lưu.
Trò chơi – chọi gà, câu cá.
Nhìn chung, khi không bắt buộc phải làm việc, những người dân sống ở Đàng Ngoài yếu đuối và biếng nhác. Hạnh phúc lớn nhất của họ chỉ là thoả mãn thói phàm ăn. Chỉ có những niềm say mê hầu như luôn có hại cho xã hội (VTNh: những niềm say mê bệnh hoạn) mới kéo người ta ra khỏi tình trạng uể oải.
Tôn giáo
Với quần chúng vô học, tôn giáo ở đây là thực hành mê tín. Chẳng có gì là không có thể thành vật thờ cúng. Nhưng đối tượng của mê tín lại luôn luôn thay đổi. Hôm nay được tôn sùng mai bị lãng quên, thậm chí bị phỉ báng.

Không có gì lâu bền. Nên có thể nói chẳng có tôn giáo gì cả. Chùa có ở mọi trấn, xã, song đều xây dựng cẩu thả, và trông thì xấu xí.
Rất nhiều thuật sĩ bịp bợm. Quyền lực của họ vươn từ những người dân dưới đáy tới vua chúa.
Về Khổng Tử và Nho giáo
Các giáo điều chính:
– lưu ý sức mạnh trí tuệ. Đặt vấn đề có được hiểu biết bên trong về sự vật
– nhấn mạnh chữ tâm
– đề cao lòng thành.
Khoa học, kỹ thuật.
Khoa học – lo nghiên cứu bình chú Khổng Tử. Địa lý thiên văn cổ lỗ. Lịch sử chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia.
– Không hiểu gì về thế giới.
– Giải thích về khí hậu rất nực cười.
Dân tộc này chỉ quen nhận thức những vật thể có hình hài và cảm giác. Mọi biện luận siêu hình bị coi là vô bổ.
Dửng dưng với việc đi tìm chân lý, họ chỉ quan tâm tới những quan nịêm mang tính đạo đức.

Giáo dục và thi cử
Tham nhũng, thiên vị, thiên kiến… là tình trạng bao trùm trong cả vương quốc.
Do đó các cuộc thi tiến sĩ dù cố tỏ ra nghiêm khắc cũng chỉ vô ích. Học hành chẳng theo chương trình nào. Khả năng đỗ phụ thuộc trí nhớ (chứ không phải kiến thức).
Người thi đỗ được miễn mọi khoản thuế. Địa vị quý tộc không được truyền lại cho con cháu. Mà mỗi cá nhân, đến lượt mình, tự xác định cho mình.
Học người xưa không hề có phê phán. Không học ngoại ngữ. Vua có thông ngôn – tiếng Hoa, tiếng vài nước láng giềng, tiếng Bồ Đào Nha.
Người làm mỹ thuật tay nghề đơn sơ, ít khao khát hoàn thiện; bó chặt trong quy phạm lâu đời. Khuôn mặt trên các tác phẩm điêu khắc trông khủng khiếp và kỳ quái.
Mọi nghề nghiệp đều chỉ tiến hành với những dụng cụ đơn giản như làm việc không cần thước.
Nội ngoại thương trong cái bóng của người Hoa
Nhiều tiềm năng. Nhưng chính quyền không muốn dân giàu sợ thần dân một khi tích tụ tài sản, sẽ sinh tham vọng, kiêu căng không còn thói quen phụ thuộc tuyệt đối, như là cái đảm bảo cho sự cai quản của nhà vua. Cũng có những người giàu lên nhưng phải cống nộp quan trên khá nhiều.

Ngay người Hoa cũng phải hối lộ quân vương. Thương nhân bản xứ bị xem là đáng sợ nếu quan hệ với người ngoại quốc.
Các ngành thương nghiệp và thủ công nghiệp của người Hoa tối cần đối với sự sống còn của vương quốc.
Trong thương mại của người Hoa có một ngành khá nổi bật: thuốc bắc. Ngoài ra, họ còn buôn bán chè, đồ sứ, tơ lụa, vải, dùng bột mì, nồi niêu, đồ sắt.
Người Hoa không truyền nghề cho cư dân bản địa để giữ bí mật. Từ đó, người Việt có niềm tin mình không thể làm gì bằng người Hoa.
Nghề người Hoa làm:
– khai thác hầm mỏ
– đúc vàng bạc
– khắc ván in, làm ra những cuốn sách.
Dùng sức mạnh tài trí, khiến người ta cần đến họ. Rất nhiều mánh khoé. Sống ở Đàng Ngoài, người Hoa bảo tồn trang phục. Họ là người cung cấp hàng cao cấp cho chính quyền và đây là việc họ không thích nhưng buộc phải làm thì mới có quyền tha hồ bán các loại hàng khác cho dân thường.
Người Hà Lan từng làm một con đê ở đây.

Người Anh cũng mang đến các mặt hàng như người Hoa. Ví dụ các loại đá quý, ngọc trai, nhưng đáng chú ý: đá giả mới bán chạy.
Dân nghèo quá, nhiều khi lại mua chịu và hay quỵt. Khi tàu buôn đến, có lính đến khám. Tàu buôn phải giấu ngay các mặt hàng quý. Bộ máy hành chính từ vua xuống tự cho mình quyền tha hồ quấy đảo đám lái buôn này.
Kỹ thuật đúc tiền kém cỏi. Tiền rất dễ thành vô giá trị. Rồi tiền từ Trung Hoa tới — “hiếm có quốc gia nào trên thế giới có quá nhiều kẻ đúc tiền giả như vậy”
Mỏ vàng bạc chỉ người Hoa biết khai thác, và nộp cho chính quyền bao nhiêu, là do họ tính.
Dân Đàng Ngoài hiếm khi sử dụng tới phép đo lường trong buôn bán. Dùng tay để đo vải. Gạo đỗ, đong bằng khối hoặc ước lượng. Buôn thóc gạo bị cấm, nhưng vẫn diễn ra khá sầm uất.
Mức lãi của người buôn lên tới 1/3, mặc dù vậy, người Đàng Ngoài chỉ là “những tay buôn vô cùng kém cỏi”.Buôn vải, tơ. Buôn quế – vua độc quyền khiến dân miền núi thành kẻ buôn lậu. Đường cũng mua của người Hoa. Khai thác rừng tre cũng tuỳ tiện. Ai muốn, chỉ cần nộp ít tiền cho người quản lý hành chính là chặt thoả thích, hoặc đốt, phá nhiều tre đưa trở về qua đường sông.

Đàng Ngoài có thể là điểm trung chuyển lý tưởng cho thương mại Âu Á. Nhưng chính quyền sợ người nước ngoài nhân cớ đó để xâm lược. Đáng lẽ phải ngờ người Hoa vì họ đã từng nắm giữ chủ quyền ở đây. Song vì lý do cùng chung phong tục, tín ngưỡng… người Hoa không bị ngờ như người châu Âu.
Biến động của quyền lực trong lịch sử
Dù từng là một bộ phận của Trung Hoa, song đây vẫn là một sắc dân hoàn toàn khác biệt. Trung Hoa gọi họ là man di.
Thời đó người ở đây chưa có chữ. Dùng chữ Hán. Các thủ lĩnh bản địa, tuyên bố mình là chủ nhân của mảnh đất này. Dân theo sự dắt dẫn của họ, các thủ lĩnh thường có sự giúp đỡ của bọn du đãng. Nội chiến (12 sứ quân). Lê Đại Hành xưng vương…
Nhà Minh sang, sau Lý Trần, thi hành luật lệ, phong tục, cách làm ăn kiểu Trung Hoa “bắt dân chúng phải tuân theo một lối sống giống nhau”. Nhờ vậy, một trật tự vững chắc được thiết lập và bảo lưu đến tận cuối thế kỷ XVIII.
Dân chúng dù lấy làm tự hào tuân thủ các phong tục và luật lệ của ông chủ phương Bắc nhưng nó không làm cho họ quên đi ký ức về sự tự do xa xưa và mong ước trở lại.

Quan hệ với Trung Hoa: có triều cống, nhận ấn phong vương “coi như một dấu hiệu độc lập và một sự xác nhận với việc lên ngôi”; nhưng không vì triều cống mà những vị vua này hoàn toàn không phải là những chủ nhân ở đất nước họ.
Nhà Lê suy yếu. Mạc Đăng Dung (một “kẻ phiêu lưu”) cướp ngôi. Nguyễn Kim giúp khôi phục mang theo sự hình thành thể chế nhà chúa. Trịnh Kiểm- người có tài năng và phẩm chất dị thường, từng là thủ lĩnh bọn cướp.
Hình thành Đàng Trong. Nguyễn Hoàng vẫn thần phục nhà Lê nhưng tự tuyên bố độc lập. Đàng Trong ngày một rộng lớn nhiều chúa tể nhỏ hơn, trở thành thuộc quốc của vị tướng này.
Ở phương Đông được làm vua thua làm giặc. Còn ai cũng gian ác. Vua là một danh nghĩa, giống như một đồ trang sức.
Vua chỉ có quyền hão (Chúa quản lý hết và có quyền thế tập). Vua ngủ say trong niềm vui thú và bạc nhược. Làm quen với sự thụ động và nhàn rỗi. Dòng chúa tự sàng lọc, chỉ có người con kế vị có quyền, ngoài ra đa số bị đẩy vào cảnh nghèo đói. Một số bị điên.
Cả nước bị tàn phá bởi cuộc chiến, đất đai bỏ hoang, nạn đói khủng khiếp. Trong khoảng 8 năm trời, 1/3 dân chúng của vương quốc đã chết.

Lực lượng quân đội
Do hoạn quan chỉ huy (chức vụ có được là do mua). Nghề binh ở đây cha truyền con nối.
Luật pháp.
Luật Đàng Ngoài vốn được rút ra từ luật của Trung Hoa. Luật cổ luôn quan tâm tới lợi ích của dân chúng. Người nghèo cũng được bảo vệ.
Nhà vua được xem là người duy nhất quan tâm đến lợi ích chung. Còn tất cả những người khác chỉ hoàn toàn chăm chú đến lợi ích của riêng họ. Nhưng ở thời này, vua bị loại ra rìa, bị vô hiệu hóa, cộng đồng này chỉ còn quỷ, mà chúa là tên quỷ lớn nhất.
Thói quen ăn hối lộ vững chắc trong quan chức. Có thể đạt với bất kỳ điều gì bằng sức mạnh của đồng tiền. Người ta phải xuất vốn 20-30 ê-quy cho một chức vụ.
Người hiểu biết phải kinh ngạc vì bọn quan lại bạo ngược. Nhưng vua không biết gì hết.
Nhìn đại lược về hạnh kiểm của dân chúng thì sẽ thấy rất nhiều điều đáng phàn nàn, và ngay cả ở những điều quan trọng nhất. Không có một dân tộc nào trên trái đất này — nấp sau vẻ ngoài trầm tĩnh và đức độ như người Trung Hoa — lại gian xảo hơn, vụ lợi hơn, phó mặc mình cho những niềm đam mê hơn và hăng hái hơn trong việc thoả mãn bản thân.

Họ luôn tìm cách lừa dối nhau. Đối với người nước ngoài lại càng không có sự an toàn nào, nghĩa là luôn luôn trong trạng thái ngờ vực.
Rất nhiều luật lệ, có những điều luật thể hiện công lý nhân văn và từ thiện hơn luật pháp Trung Hoa.
Nhưng không phải chúng được thực hiện. Các thẩm phán luôn luôn đứng về phía người có của. Tất cả đều có thể mua bán một cách tuỳ tiện.
Có thời khoảng thế kỷ XVI (?) tuy, đất nước thịnh trị, luật lệ nghiêm khắc. Nhưng một vị chúa đầu thế kỷ XVIII (70-80 năm trước khi xuất bản sách này) đã thay đổi tất cả. Tăng thuế. Ngông cuồng hưởng lạc. Tăng cường quyền lực cho đám hoạn quan đến mức vô bờ bến. Và tăng cả số lượng, tới mức chúng làm cho đất nước trở nên nghèo đói.
Vết nhơ về sự chuyên quyền ghi sâu trong đời sống toàn bộ dân chúng vì chẳng có cách gì để chống lại sự hám tiền, hám quyền của bọn quan lại.
Ngoài ra những lo lắng, sự ngờ vực, sự thiếu cạnh tranh đã bóp nghẹt mọi tài năng, căng thẳng tinh thần, làm xẹp đi mọi tham vọng chính đáng. Người dân không còn nhìn đâu xa hơn cuộc sống tầm thường quanh mình.

Nhà tù
Đó thực sự là một nơi khổ hình bất tận. Giường của tù nhân chính là nền đất ẩm ướt. Đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn và ngủ trong bóng tối, bùn, và rác. Thường xuyên là người sống chung với những xác chết bị thối một nửa. Cai ngục là bọn đáng ghê tởm.
Nhưng đó là một nghề được ưa chuộng. Người ta phải nhờ cậy chạy chọt mới có được chân cai ngục và họ sẽ giàu lên bằng sự tàn bạo.
Khả năng tự biến đổi , tự hoàn thiện
Chế độ chuyên chế tuyệt đối đã đối kháng với sự phồn vinh của quốc gia. Nó làm cho trình độ sống của cộng đồng – chẳng hạn hoạt động kinh doanh– không bao giờ được nâng lên.
Ở đây, mọi sự vượt trội và một khao khát mưu cầu danh tiếng đều dễ bị coi là một thứ tội phạm.
Đốn mạt nhất là những hoạn quan khóac đầy mình những chức tước. Chúng tàn bạo và cho phép mình tha hồ cướp bóc công khai của cả quan chức lẫn dân thường.
Vì rằng mọi tài sản đều là tạm bợ và những vinh hiển cũng chỉ có lúc, con người sinh ra hư vô, họ cảm thấy trước xu thế nghèo khó chung, rồi chẳng có gì cứu được họ.

Tuy nhiên nếu được cai trị tốt hơn thì dân chúng vẫn có thể tự hoàn thiện và sẽ chẳng khó khăn gì trong việc yêu cầu họ thực hiện những đức hạnh phổ quát hữu ích cho xã hội.

Ghi chép từ cuốn Lịch sử tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài
– Jerome Richard – Paris 1778
góc nhìn này khá khách quan
 
Top